Triệu Khuông Dận với tư cách là thống soái cấm quân của kinh thành, cũng nhờ một cuộc binh biến mà lên ngôi Hoàng đế, sáng lập ra triều Tống. Tuy nhiên, để con rồng Triệu Khuông Dận có thể “đằng vân giá vũ”, có lẽ họ Triệu phải thầm cảm ơn hai vùng đất có phong thủy cực đẹp liên quan tới sự phát tích của mình….
Nguồn gốc họ Triệu
Trong số các dòng họ Trung Quốc, họ Triệu được coi là họ lớn nhất, được xếp ở vị trí đầu tiên trong “trăm họ”.
Nguyên nhân thực chất là vì cuốn sách “Bách gia tính” (cuốn sách ghi lại các dòng họ ở Trung Quốc) là do một văn nhân ở Tiền Đường, Hàng Châusống đầu thời kỳ nhà Tống viết ra. Nhà Tống do Triệu Khuông Dận lập ra, nên họ Triệu được coi là quốc tính.
Chính vì vậy, khi viết “Bác gia tính”, văn nhân này đã để họ Triệu lên đầu tiên. Người đời sau cứ như vậy ngộ nhận rằng, họ Triệu là họ đứng đầu trong trăm họ. Trên thực tế, đó chỉ là cách bọn văn nhân bồi bút lấy lòng ông vua họ Triệu mà thôi.
Truy nguyên theo gia phổ của Triệu Khuông Dận, người ta phát hiện ra rằng, Triệu Khuông Dận là hậu duệ của Phượng Điểu. Theo ghi chép của sử sách thì tổ tiên của Triệu Khuông Dận vốn không phải mang họ Triệu mà là họ Doanh, có cùng tổ tiên với họ Doanh của nước Tần và hình thành từ thời nhà Tây Chu.
Trác Quân
Khởi thủy của dòng họ Doanh thực chất bắt nguồn từ thời Tam Hoàng. Tổ tiên của họ là Bá Ích, là thủ lĩnh tộc Đông Di triều nhà Hạ, được vua Nghiêuban cho họ Doanh.
Tới đời cháu thứ chín của Bá Ích là Tạo Phụ, làm chức Xa Ngự (người đánh xe) cho Chu Mục Vương.
Tạo Phụ rất giỏi săn bắn, vì thế, thường được cùng Chu Mục Vương ra bên ngoài tham gia các cuộc vui chơi săn bắn. Có một lần, Tạo Phù phát hiện ở chợ ngựa Đồng Quan có 6 con ngựa rất khỏe, lông chỉ tuyền một màu không có sợi pha tạp.
Tuy nhiên, vào thời bấy giờ, triều đình có quy định, xe của vua thì phải dùng 8 con ngựa cùng một loại, màu sắc cũng phải giống nhau.
Nhưng ở chợ Đồng Quan, Tạo Phụ chỉ thấy có 6 con ngựa, như vậy nếu có mua 6 con ngựa này về cũng không dùng được vì quy định không cho phép. Tuy nhiên, 6 con ngựa mà Tạo Phụ nhìn thấy lại quá đẹp, nếu bỏ qua thì thật đáng tiếc.
Sau khi do dự một hồi lâu, Tạo Phụ nghe có người nói rằng, đến vườn đào sâu trong lòng núi có thể tìm thấy những con ngựa cùng màu với 6 con ngựa nói trên thì quyết định mua 6 con ngựa và lập tức vào vườn đào trong núi để tìm.
Vườn đào trong núi rộng tới 300 dặm, lại toàn cây cổ thụ cao vút, việc tìm được hai con ngựa đâu phải chuyện nói là làm được ngay.
Thế nhưng Tạo Phụ hạ quyết tâm nhất định phải tìm bằng được hai con ngựa mới thôi. Những ngày sau đó, Tạo Phụ đã phải chịu rất nhiều khó khăn gian khổ cuối cùng cũng tìm được được hai con ngựa có cùng màu lông với 6 con ngựa mình đã mua.
Tạo Phụ vui mừng lắm, đem 8 con ngựa gộp thành một đội rồi dâng tặng cho Chu Mục Vương.
Chu Mục Vương được tặng ngựa rất vui vì Tạo Phụ đã sẵn sàng chịu mọi gian khổ một mình vào vườn đào trong núi sâu để tìm ngựa tặng mình. Vì thế, Chu Mục Vương đã đặt tên cho hai con ngựa mà Tạo Phụ tìm được trong rừng là “Hoa Lưu” và “Li Nhĩ”.
Cũng bắt đầu từ đây, hai từ “Hoa Lưu” và “Li Nhĩ” trở thành hai từ dùng để ca ngợi vẻ đẹp của những con ngựa tốt.
Được tặng ngựa quý, Chu Mục Vương đương nhiên càng sủng tín Tạo Phụ hơn. Truyền thuyết nói rằng, vào một ngày nọ, hai người nổi hứng thúc ngựa phi thẳng về phía tây, 8 con thiên lý mã ngay lập tức bỏ xa đội quân cận vệ theo hầu Chu Mục Vương lại phía sau, chẳng còn thấy bóng dáng đâu nữa.
Chu Mục Vương và Tạo Phụ vô cùng vui vẻ, chẳng còn để ý gì tới những người phía sau nữa, cứ thế quất ngựa chạy thẳng về phía tây. Chưa tới nửa ngày sau hai người đã đặt chân tới Tây Vực.
Đây là lần đầu tiên hai người tới một nơi cách vương quốc của mình xa như vậy. Cảnh sắc nơi đây hoàn toàn khác với quan trung, đất đai bao la, núi sông tráng lệ khiến hai người lưu luyến quên cả việc trở về.
Thêm nữa, nơi đây còn hoang sơ, chim thú quý xuất hiện khắp nơi, Chu Mục Vương và Tạo Phụ vốn là hai người ưa sắn bắn đương nhiên không thể dằn lòng được. Hai người quất ngựa đuổi theo săn bắn những loài chim thú kỳ lạ.
Chẳng bao lâu sau, trời đã tối sập, hai người đành thả cho 8 con ngựa tùy ý chạy trên vùng hoang mạc hoang vu của Tây Vực. Cứ như vậy, chẳng mấy chốc, Chu Mục Vương và Tạo Phụ đã tới Côn Luân Khâu, đó chính là Giao trì của Tây Vực.
Tại đây hai người đã gặp Tây Vương Mẫu, được Tây Vương Mẫu khoản đãi rất thịnh tình, ba người cùng uống rượu tiên và ca hát, vô cùng vui vẻ sáng khoái.
Đúng lúc Chu Mục Vương còn đang chìm đắm trong những thú vui ở chốn bồng lai thì Từ Yển Vương của Từ Quốc khởi binh làm phản. Chu Mục Vương vô cùng lo lắng, Tạo Phụ bèn đánh xe ngày vượt ngàn dặm, vội vàng trở về Cảo Kinh, kịp thời dập tắt phản loạn.
Sau khi dẹp tan quân phản loạn, Chu Mục Vương khen ngợi Tạo Phụ đã lập công lớn trong lần dẹp loạn này vì vậy đã dùng thành Triệu (tức này là vùng phía bắc của huyện Hồng Đồng, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc) làm phần thưởng cho Tạo Phụ.
Người Trung Quốc cổ đại có thói quen dùng tên nơi ở làm họ vì thế, con cháu Tạo Phụ sau này đều tự xưng mình mang họ Triệu.
Tại thành Triệu, con cháu Tạo Phụ truyền đến đời thứ 6 là Yểm Phụ. Yểm Phụ tên là Công Trọng, giống như tổ tiên của mình, Yểm Phụ là một quan đánh xe của Chu Tuyên Vương.
Nhờ giúp Chu Tuyên Vương trong công cuộc phụng hưng nhà Chu, sử sách gọi là “Tuyên Vương trung hưng”, họ Triệu của Yểm Phụ bắt đầu có địa vị và sự phát triển đầu tiên.
Tới thời Chu U Vương, vì ông vua này vô đạo, cháu đời thứ 7 của Tạo Phụ là Thúc Đới rời nhà Chu tới nước Tấn và trở thành người đánh xe của Tấn Văn Vương.
Từ Thúc Đới trở về sau, con cháu họ Triệu đều là quan lại nhà Tấn và luôn được xếp vào loại danh gia vọng tộc ở quốc gia này.
Tới những năm đầu thời chiến quốc, thế lực của quý tộc nước Tấn bị suy yếu, các quan đại phu trong triều đình bắt đầu nắm chính quyền.
Cháu đời thứ 12 của Thúc Đới là Triệu Tương trở thành một trong những đại thần quyền lực nhất lúc bấy giờ. Triệu Tương liên hợp với hai họ khác là họ Ngụy và họ Hàn cùng nhau phân chia nước Tấn, thành lập ba nước là Triệu, Ngụy, Hàn.
Việc thành lập nước Triệu lúc bấy giờ được coi là hành động bất trung với thiên tử nhà Chu, cũng bất trung với vương thất nhà Tấn. Tuy nhiên, Triệu Nhương biết vậy vẫn làm.
Tới cháu của Triệu Nhương là Triệu Tịch thì nước Triệu chính thức được Chu Liệt Vương công nhận, cùng với Hàn, Ngụy, họ Triệu được liệt vào hàng chư hầu.
Năm 222 trước Công nguyên, nước Triệu là một trong 6 nước chư hầu bị nước Tần tiêu diệt. Vương thất, quý tộc cho tới dân thường nước Triệu đều lấy tên nước làm họ, xưng là họ Triệu, tản mác khắp nơi trong cả nước.
Trong số này, có ba phân chi lớn của họ Triệu là tại Thiên Thủy, Hàm Đan, Trác Quận, trong đó phân chi ở Trác Quận (còn gọi là họ Triệu ở Hà Gian) được coi là phân chi kế thừa long mạch của họ Triệu.
Tuy nhiên, họ phải đợi tới mãi thời Ngũ Đại mới xuất hiện “chân long thiên tử” của dòng họ mình. Người đó đương nhiên chính là ông vua sáng lập nhà Tống – Triệu Khuông Dận.
Trác Quận màu mỡ
Trác Quận là một kinh đô lâu đời trong lịch sử Trung Quốc. Trác Quận bắt đầu xuất hiện từ thời Hán Cao Tổ Lưu Bang. Trác Quận nổi tiếng nhờ Trác Thủy.
Trong con mắt của nhiều nhà phong thủy, Trác Quận được coi là một nơi “đất quý” còn trong mắt các nhà địa lý, Trác Quận là một mảnh đất rất màu mỡ.
Trên thực tế, bản thân Trác Quận vốn không có hệ thống sông phát triển như vậy. Tuy nhiên, việc nhà Tùy cho đào Đại Vận Hà đã khiến nơi đây trở thành điểm tàng phong tụ khí.
Vào năm 605 sau Công nguyên, tức năm Đại Nghiệp thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên lên ngôi Tùy Dạng Đế đã ra lệnh cho hơn 7 triệu binh lính và phu dịch đào một con sông thông tới Trác Quận, cùng năm đó, Tùy Dạng Đế lại cho cải tạo Hàn Câu. Cho tới năm 610, việc đào Đại Vận Hà mới được thực hiện xong.
Tùy Dạng Đế nổi tiếng là ông vua tàn bạo và dâm loạn trong lịch sử Trung Quốc, tuy nhiên, trong suốt thời gian trị vì của mình, Tùy Dạng Đế đã đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thông Tế, Hàn Câu, sông Giang Nam, giúp nối liền Hoàng Hà với Trác Quận, Biện Thủy với Hoài Hà, Hoài Hà với sông Trường Giang, Kinh Khẩu với Từ Châu giúp việc giao thông đường thủy từ bắc đến nam được lưu thông. Hệ thống này được gọi sử sách gọi là Đại Vận Hà.
Đại Vận Hà bắt đầu từ Trác Quận ở phía bắc kéo dài đến Từ Châu ở phía nam, tổng cộng kéo dài hơn 5.000 dặm.
Ngoài tác dụng là đường giao thông huyết mạch từ bắc tới nam, Tùy Dạng Đế còn sai người tu sửa đường xá ở hai bên bờ sông, trông các hàng dương liễu để tiện cho mình từ Trường An tới Giang Đô du ngoạn.
Ngoài ra, Tùy Dạng Đế còn cho xây dựng ở dọc sông rất nhiều kho chưa lương thực làm nơi trung chuyển hoặc tích trữ lương thực cho các địa phương và triều đình.
Như vậy, Trác Quận trở thành điểm cuối cùng của Đại Vận Hà, trở thành nơi tụ hội của những tài sản và tinh hoa của cả thiên hạ.
Hơn nữa, hệ thống Đại Vận Hà này cũng nối liền với hai con sống lớn nhất trên lãnh thổ Trung Quốc là Hoàng Hà và Trường Giang, nối liền ba long mạch lớn vắt ngang trung nguyên.
Chính vì thế Trác Quận bắt đầu lộ ra long mạch. Việc phán đoán phong thủy một vùng đất là tốt hay xấu, việc xem xét hệ thống sông nước của vùng đó là rất quan trọng.
Theo quan niệm thông thường thì nguồn nước sâu và dài thì long khí vượng, nguồn nước nông và ngắn thì sẽ không thể nuôi được phúc khí rồng.
Thêm vào đó, sự thay đổi của sông ngòi cũng có thể ảnh hưởng tới bố cục phong thủy của một vùng đất. Trác Quận hiển lộ long mạch cũng là vì hệ thống sông ngòi nơi đây bị Tùy Dạng Đế thay đổi do việc đào Đại Vận Hà.
Từ thời Tây Hán Thủy tổ của dòng Triệu ở Trác Quận là quan Kinh Triệu Doãn Triệu Quảng Hán đã sống ở vùng này.
www.phongthuydialytrunghoa.com
Triệu Khương Dân
Triệu Quảng Hán là một danh thần thời Tây Hán. Sách “Hán Thư” có chép về Triệu Quảng Hán như sau: “Quảng Hán là người mạnh mẽ, trời sinh đã là người hiếu thuận và tài năng”.
Vì thế, Triệu Quảng Hán địa vị giống như tể tướng triều Hán. Những con cháu của họ Triệu sau này cũng chẳng phải hạng xoàng xĩnh. Cháu của Triệu Quảng Hán là Triệu Cống vẫn tiếp tục làm một chức quan to trong triều Hán.
Địa vị của họ Triệu còn kéo dài cho tới tận thời nhà Tấn. Dưới triều Tấn, con cháu của họ Triệu là Triệu Chí dù không làm quan nhưng vẫn là một kẻ sĩ được người đương thời rất mực tôn kính.
Tới thời nhà Tùy, hai cha con Triệu Thế Mô và Triệu Nguyên Thúc, hết lòng phò tá triều đình, trở thành hai công thần nổi tiếng của nhà Tùy.
Họ Triệu ở thời Đường càng nhiều nhân tài hơn, hầu hết đều làm quan rất to trong triều. Việc họ Triệu trở thành dòng họ rất thành danh dưới triều Đường có liên quan rất chặt chẽ tới việc thay đổi phong thủy ở Trác Quận.
Cho tới thời Triệu Hoằng Ân, cha của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận, long khí của họ Triệu mới bắt đầu lộ ra. Theo sách “Lương Thư” chép thì khi Triệu Hoằng Ân sinh ra đã xảy ra rất nhiều chuyện kỳ dị. Hôm đó, sóng của sông Hoàng Hà đột nhiên cuộn lên rất cao.
Từ dưới đáy sông, sóng cuộn lên một chiếc bia bằng đồng, bên trên khắc ba hàng chữ: “Hữu nhất chân nhân tại Ký Châu, Bế khâu trương cung tả hữu biên, tử tử tôn tôn vạn vạn niên!” (nghĩa là ở Ký Châu sẽ xuất hiện một người có tên là Hoằng, con cháu của người đó sẽ đời đời kiếp lên ngôi hoàng đế).
Điều này vừa trùng khớp với cha con Triệu Khuông Dận. Trong tên củaTriệu Hoằng Ân có một chữ Hoằng, con trai của ông ta là Triệu Khuông Dận cũng lên ngôi hoàng đế, trị vì thiên hạ.
Lạc Dương sinh rồng
Triệu Hoằng Ân ngay từ nhỏ đã tỏ ra kiêu dũng dị thường, có tài cưỡi ngựa bắn tên. Lúc bấy giờ, các triều đại thời Ngũ Đại chiến tranh liên miên, Triệu Hoằng Nhẫn lập rất nhiều công trạng lớn trong cuộc chiến giữa nhà Hậu Đường và Hậu Lương, vì vậy rất được vua Đường Trang Tông Lý Tồn Húc tin dùng, bổ nhiệm làm thủ lĩnh cấm quân của triều Hậu Đường.
Hậu Đường xây dựng kinh đô ở Lạc Dương, vì thế, Triệu Hoằng Ân dời nhà từ Trác Quận tới Lạc Dương. Lần di chuyển này đã giúp Triệu Hoằng Ân sinh ra một “chân long”. Đó chính là ông vua khai quốc triều Bắc Tống Triệu Khuông Dận.
Địa thế phong thủy của Lạc Dương đương nhiên không phải nhắc tới. Bởi lẽ nơi đây từ xưa đã được chọn làm kinh đô của rất nhiều triều đại. Từ khu vực trung tâm của Lạc Dương, phía bắc Mang Sơn làm bình phong, phía nam có ngọn Y Khuyết sừng sững, phía Tây là Tần Lĩnh, phía đông là Sùng Nhạc.
Bốn phía có những cửa ải tự nhiên sừng sững che chở, phía đông có Hổ Lao Quan, phía tây có Hàm Cốc Quan, phía nam có Hoàn Viên Quan, phía bắc có Mạnh Luật Cổ Độ (còn gọi là Mạnh Luật Quan).
Với địa thế đó, Lạc Dương là nơi có địa thế vô cùng quan trọng, là nơi mà các nhà quân sự luôn tìm cách chiếm cho bằng được.
Do địa thế có núi non hiểm trở bao bọc, Lạc Dương là vùng đất dễ thủ nhưng khó tấn công.
Trong đó, núi Long Môn nằm cách Lạc Dương khoảng 25 dặm về phía nam, song song với Hương Sơn, ở giữa hai ngọn núi này là sông Y Thủy.
Truyền thuyết trong dân gian lưu truyền rằng, hai ngọn núi này ban đầu vốn chỉ là một, chắn ngang ở giữa làm ngăn trở dòng chảy của sông Y Thủy, gây ra ngập lụt cho dân làng.
Khi Vua Vũ trị thủy đã bổ đôi ngọn núi này ra để cho sông Y Thủy chảy qua ở giữa, vì thế ngọn núi này mới phân thành hai ngọn một phía đông một phía tây như ngày nay.
Vì mọi người đều so sánh Vua Vũ với rồng, vì thế ngọn núi này mới được gọi là Long Môn Sơn.
Từ thời cổ đại, nơi đây đã trở thành cửa ngõ phía nam của Lạc Dương, còn gọi là Y Khuyết. Nằm đối diện với ngọn Long Môn ở phía đông chính là ngọn Hương Sơn. Vì ở trong núi này có loại sắn có mùi rất thơm, vì vậy, người dân nơi đây mới gọi núi này là Hương Sơn.
Ngọn núi này có cảnh sắc rất đẹp, ngọn núi cao nhọn, cây cối rậm rạp, xanh biếc, rất hấp dẫn người ta tìm tới để tham quan hoặc ở.
Nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Bạch Cư Dị những năm cuối đời đều sống ở đây, vì vậy mới có hiệu là Hương Sơn Cư Sĩ. Sau khi Bạch Cư Dị chết, được chôn cất ở ngọn Tỳ Bà của núi Hương Sơn.
Ở phía tây, nằm cách Lạc Dương khoảng 30 dặm là ngọn Chu Sơn, còn gọi là Tần Sơn, phía tây bắt đầu từ Hào Sơn ở Lạc Ninh, đến phía đông thì vào Lạc Dương. Do trên núi này có 3 ngôi mộ cổ vì vậy người ta còn gọi nơi đây là Tam Sơn.
Nếu đứng trên đỉnh của Chu Sơn, phía bắc có thể nhìn thấy Mang Sơn, phía nam có thể nhìn thấy sông Lạc Thủy, khung cảnh rất tráng lệ. Ngoài ra, ở Lạc Dương còn một ngọn núi rất nổi tiếng khác, là nơi Bá Di và Thúc Tề, hai đại thần nhà Thương đã chết đói tại đây.
Ngọn núi này nằm ở khu vực phía đông của Lạc Dương, là một bộ phận của Mang Sơn. Do đỉnh núi rất cao, mặt trời xuất hiện ở đây đầu tiên nên còn gọi là Dương Sơn.
Những ngọn núi bao quanh khiến Lạc Dương xuất hiện khí tượng của long mạch. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi của Lạc Dương cũng xuất sắc không kém.
Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy qua Tân An, Mạnh Tân, rồi chảy về phía đông. Về hướng Tây Nam của Lạc Dương có hai nhánh của sông Hoàng Hà là sông Lạc Hà và Y Hà.
Sông Lạc Hà, còn gọi là Lạc Thủy, cũng chính vì con sông này nên vùng đất này mới có tên là Lạc Dương.
Lạc Hà là một nhánh lớn của Hoàng Hà ở vùng trung du, bắt nguồn từ Thiểm Tây, chảy qua Lạc Nam của Thiêm Tây, Lư Thị, Lạc Ninh, Nghi Dương, Lạc Dương, Yển Sư, Củng Nghĩa của Hà Nam rồi mới đổ và Hoàng Hà.
Sau khi Tùy Dạng Đế cho đào Đại Vận Hà, nơi đây trở thành trung tâm của Đại Vận Hà, nghĩa là đầu mối của cả nước.
Y Hà, bắt nguồn từ Hùng Nhĩ Sơn thuộc núi Nga Mi, chảy qua huyện Sùng, Y xuyên, Lạc Dương rồi gặp Lạc Hà ở Yển Sư. Phần thượng du Y Hà có nhiều khe hẹp, nước chảy gấp, lượng nước phong phú.
Lưu vực của hai dòng sông Y Hà và Lạc Hà là mảnh đất trọng yếu để các triều đại cổ xưa chọn làm kinh đô, có thể coi nó như chiếc nôi của nền văn minh Trung Quốc.
Sử gia Tư Mã Thiên nói: “Xưa nơi ở của Tam Hoang (3 ông vua đầu tiên của Trung Quốc) đều ở vùng Hà Lạc này cả”. Trong lịch sử 5 ngàn năm của Trung Quốc, có đến một phần ba các vương triều đều lấy vùng này làm trung tâm.
Thời Tây Hán, ban đầu Lưu Bang dự định định đô ở Lạc Dương. Tuy nhiên, sau đó Lưu Bang đã nghe lời Trương Lương mới dời đô về Trường An.
Sau khi Bắc ngụy thống nhất phương bắc, việc đầu tiên Hiếu Văn Đế làm đó chính là dời đô về Lạc Dương. Thời kỳ 16 nước thời Đông Tấn, thiên hạ đại loạn, các khu vực hành chính không được ghi chép một cách cẩn thận.
Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn rằng, vùng Lạc Hà vẫn là trung tâm của Hà Nam Quận.
Sau khi triều Tùy thống nhất thiên hạ, đã lấy Đông Đô Lạc Dương làm trung tâm của cả nước. Tới thời nhà Đường, sau khi Đường Thái Tông lên ngôi không lâu đã ra lệnh cho tu sửa Lạc Dương. Ngoài ra, Võ Tắc Thiêncũng rất thích Lạc Dương.
Trong thời kỳ Đường Cao Tông còn tại vị, Võ Tắc Thiên thường khuyên Cao Tông dời đô về Lạc Dương. Sau khi tự mình lên ngôi hoàng đế, nắm chính quyền, Võ Tắc Thiên càng dành nhiều thời gian sống ở Lạc Dương hơn đồng thời đổi tên Đông Đô của Lạc Dương thành Thần Đô, gọi sông Lạc Hà là Thánh Hà (sông thánh).
Tới thời Đường Huyền Tông, trước sau ông vua đa tình nổi tiếng này sống ở Lạc Dương khoảng 10 năm, mở đầu cho thời thịnh trị Khai Nguyên nổi tiếng của triều Đường.
Một học giả thời Thanh sau khi đi khảo sát sông núi Lạc Dương đã nói rằng, Lạc Dương ở phía Nam có núi Chẩm Sùng, Y Khuyết, ở phía bắc có Mang Sơn, Hoàng Hà, phía đông có Hổ Lao Quan, phía tây có Hàm Cốc Quan, có núi sông bao bọc như vậy quả là số một thiên hạ, có thể nói là nơi kinh đô của bậc đế vương.
Chính nhờ có long khí ở Lạc Dương bồi tụ, Triệu Khuông Dận mới có thể rất nhanh trở thành một “chân long xuất thế”, khai sáng nên vương triều nhà Tống.
Mọi chi tiết liên hệ Thầy Ba Địa Lý : 0907.228.279
www.phongthuydialytrunghoa.com
|